Dọn dẹp và san phẳng mặt bằng xây dựng, định vị vị trí các móng theo bản vẽ thiết kế. Kiểm tra cao độ nền hiện trạng để có giải pháp đào móng phù hợp. Tiến hành đo đạc, căng dây để xác định tim móng và các trục cột. Nếu cần, lập lán trại tạm cho công nhân và tập kết sẵn vật liệu quanh khu vực thi công. Gia chủ thường chọn ngày tốt để động thổ đào móng, phù hợp phong thủy và tâm linh.
Theo vị trí đã định, đào hố móng đơn thủ công hoặc bằng máy xúc. Kích thước hố móng đảm bảo chiều sâu và bề rộng theo thiết kế, thường sâu khoảng 1-1,5m tùy điều kiện đất. Trong quá trình đào, giữ hố móng khô ráo, bơm hút nước nếu có để đảm bảo thi công bê tông sau này. Nếu nền đất yếu (đất bùn, ao hồ lấp), cần gia cố nền đất trước: có thể đóng cọc tre/cừ tràm dưới đáy móng hoặc thay đất yếu bằng cát và đầm chặt.
Luôn đo đạc kiểm tra cao độ đáy móng và trắc đạc tim móng trước khi đổ bê tông. Đất đáy hố phải được đầm chặt, có thể rải một lớp đá dăm mỏng để tạo phẳng. Không để nước tù đọng trong hố móng khi thi công bê tông. Trong nền đất yếu, bố trí cốt thép móng đủ cấu tạo và thêm đà kiềng (giằng móng) nối các móng để tăng độ ổn định, giảm lún lệch.
Thi công bể phốt (hầm tự hoại) và bể nước nếu có
Xác định vị trí bể phốt (thường ở sân hoặc khu vực vệ sinh phía sau nhà). Đào hố đất với kích thước lớn hơn kích thước bể thiết kế một chút để có không gian thi công xây tường bể. Chiều sâu hố đảm bảo đặt được bể và lớp đất lấp phía trên. Làm phẳng đáy hố, đổ bê tông lót đáy dày ~5-10cm để chống thấm và lún.
Thông thường nhà cấp 4 dùng bể tự hoại 2 ngăn (1 ngăn chứa + 1 ngăn lắng). Tiến hành xây tường bao quanh bằng gạch đặc (tuynel) dày 220mm (tường đôi) để đảm bảo kết cấu vững chắc, chống thấm tốt. Vữa xây mác 75-100 (tỷ lệ 1 xi măng : 4 cát). Xây kín các mạch, miết vữa đầy đặn để tường không rò rỉ. Chia bể thành 2 ngăn theo dung tích thiết kế bằng tường ngăn 110mm (tường 10) xây gạch đặc. Chừa lỗ để lắp đặt ống thông giữa các ngăn (đặt ống PVC D110 nối 2 ngăn ở khoảng giữa chiều cao bể). Tại ngăn chứa, đặt ống xả bồn cầu vào bể (PVC D90-D110) với độ dốc ~2-3%, miệng ống vào bể có co khuỷu hướng xuống. Ở ngăn lắng, bố trí ống thoát nước ra hố ga rút (PVC D90) cao gần đỉnh bể để nước sau lắng sang hố ga hoặc thoát ra cống. Lắp thêm ống thông hơi (PVC D60-D90) từ nóc bể lên mái nhà để thoát khí metan.
Sau khi xây và lắp ống xong, tiến hành ghép cốp pha và đổ bê tông nắp bể. Thép nắp bể bố trí như bản sàn dày khoảng 10-12cm, có cửa chừa lỗ (miệng thăm) để hút bể phốt định kỳ. Đặt sẵn cổ ống hoặc khung thép cho miệng thăm (2 miệng thăm cho bể 2 ngăn). Bê tông nắp bể nên dùng đá 1×2, mác ~200, đầm kỹ. Chờ bê tông ninh kết, tháo cốp pha và bảo dưỡng tưới nước. Cuối cùng, kiểm tra kín nước: bơm nước vào bể ngâm thử 24 giờ đảm bảo không rò rỉ rồi lấp đất lại hố bể. Đầm chặt đất lấp xung quanh tránh sụt sau này.
Bể phốt cần chống thấm tốt. Nên trát xi măng cát vàng cả mặt trong và ngoài tường bể, quét thêm phụ gia chống thấm xi măng (vd. Sika) ở mặt trong. Tường bao bể phốt nên xây gạch đôi 220mm, và nên có dầm giằng quanh miệng bể bằng bê tông cốt thép để nắp bể chắc chắn. Chọn vị trí bể tránh nằm dưới phòng ngủ, bếp hoặc giữa nhà (kiêng kỵ phong thủy và khó xử lý sự cố). Miệng thăm bể phải kín mùi (đậy nắp gang hoặc nắp bê tông kín) và cao hơn mặt sân để nước mưa không tràn vào.
Chọn loại gạch xây phù hợp – tại Hà Nội phổ biến là gạch đất nung đỏ, kích thước tiêu chuẩn 60x100x200mm (gạch đặc hoặc 2 lỗ). Có thể dùng gạch không nung (gạch bê tông) nếu muốn giảm chi phí. Gạch đưa tới công trường phải đảm bảo chất lượng: viên gạch không nứt vỡ, đủ cường độ, ngâm nước không tan rã. Ngâm ẩm gạch trước khi xây: nhúng gạch vào nước sạch hoặc phun nước trước vài giờ, gạch đủ ẩm sẽ không hút nước của vữa, giúp mạch vữa gắn kết tốt. Chuẩn bị cát xây hạt vừa, xi măng PCB40, nước sạch; trộn vữa xi măng cát theo tỉ lệ (mác vữa 75-100).
Trước hết đo và định vị các tường trên nền: căng dây bật mực vị trí tường, đánh dấu các cửa mở theo bản vẽ. Khi xây, xây từ góc trước: đặt viên gạch ở các góc tường, dùng nivô hoặc dây dọi chỉnh cho thẳng đứng. Xây trụ gạch ở hai đầu đoạn tường cao 5-6 hàng gạch làm mốc, rồi căng dây giữa hai trụ để xây các viên ở giữa cho thẳng hàng. Mạch vữa ngang dày ~12mm, mạch dọc 8-10mm; trải vữa đều, đặt gạch và dùng tay hoặc búa cao su gõ nhẹ cho viên gạch chìm vào vữa, dư vữa trồi ra thì miết mạch cho kín. Bắt mạch so le: viên gạch hàng trên phải nằm gối lên 1/2 viên hàng dưới, không để trùng mạch dọc (như vậy tường mới chắc). Cứ mỗi 5 hàng gạch lại kiểm tra cao độ bằng nivô, và thẳng đứng bằng dây dọi. Tại giao với cột bê tông, xây trụ mỏ giật (xây xen kẽ để chờ liên kết vào tường tương lai) hoặc sử dụng các thép râu đã cấy vào cột để neo tường. Nếu tường dài >4m hoặc cao, nên xây từng đoạn, chừa khoảng trống rồi xây nối sau để tránh tường dài bị nặng, dễ xô nghiêng khi vữa chưa ninh kết.
Khi lên đến độ cao lanh tô cửa, dừng xây và lắp ghép lanh tô bê tông (hoặc thép chữ L làm đà lintel) rồi tiếp tục xây tường phía trên ô cửa. Tường ngoài nhà thường dày 220mm (tường đôi) để chống nóng và chịu lực tốt, còn tường ngăn phòng bên trong có thể xây 110mm (tường đơn). Khi xây, cần làm giằng tường nếu tường dài: cứ cao khoảng 3-4m nên có đà bê tông đổ ngang hoặc giằng thép chống nứt tường. Với tường 110mm cao, có thể gia cố trụ biên (tường dày ra 220 tại vị trí cột giả mỗi đoạn 3-4m) tăng ổn định.
Không xây tường quá cao một lần: nên xây từng đoạn khoảng 1m rồi chuyển sang đoạn tường khác, chờ vữa khô se mới xây tiếp lên cao để tường không bị xô lệch. Tránh để mạch vữa quá dày gây yếu tường (mạch ngang >15mm dễ nứt). Gạch phải luôn được tưới ẩm, không xây gạch khô sẽ làm vữa mất nước nhanh, mạch không đủ cường độ. Khi xây gặp trời mưa to phải che chắn, không để nước làm trôi vữa. Khu vực tường phòng tắm, vệ sinh cần để chờ các đường ống nước (chừa lỗ hoặc xây hộp kỹ thuật), đồng thời chèn ron chống thấm dưới chân tường (xây gạch đặc 3 hàng dưới cùng bằng vữa chống thấm hoặc phụ gia chống thấm) để ngăn nước thấm lên tường.
Nhà cấp 4 mái tôn thường dùng hệ khung vì kèo thép nhẹ. Vật liệu phổ biến là thép hộp mạ kẽm hoặc tổ hợp thép V, thép chữ C định hình. Đầu tiên, xác định cao độ và độ dốc mái (thông thường mái dốc 15-30% tương ứng với chênh cao 15-30cm mỗi mét ngang). Tùy thiết kế mái 1 phía dốc hoặc 2 phía dốc chữ “A”, ta gia công vì kèo phù hợp. Liên kết vì kèo vào nhà: nếu đã có dầm bê tông chờ, hàn bản mã thép vào sườn dầm rồi bắt bulông chân kèo; trường hợp không có dầm, có thể chôn sẵn thép chờ trên đỉnh tường hoặc neo tắc-kê vào cột bê tông để cố định chân vì kèo. Dựng các vì kèo (khung hình tam giác) tại các vị trí đã định (khoảng cách vì kèo 3-4m tùy khẩu độ tấm tôn). Dùng cây chống, giằng tạm để cố định vì kèo, cân chỉnh độ thẳng đứng và độ dốc rồi hàn hoặc siết bulông chắc chắn vào bản mã. Sau đó, lắp đặt các xà gồ mái (thanh thép hộp 40x80 hoặc C100) dọc theo chiều ngang nhà, kê lên các vì kèo và liên kết bằng bản mã hàn. Khoảng cách xà gồ thường 1-1.2m một hàng, tùy theo chiều dài tấm tôn. Lắp thêm latê (đòn tay) nhỏ (thép hộp 30x30 hoặc xà gồ mạ kẽm chữ Z) bắt vuông góc trên xà gồ, bước khoảng 0.4-0.5m để trực tiếp đỡ tấm tôn. Toàn bộ khung thép sau khi lắp xong phải đảm bảo chắc chắn, không bị võng và được sơn chống gỉ đầy đủ.
Tiến hành lợp từ mép dưới lên đỉnh mái. Đặt tấm tôn đầu tiên (tôn 5 sóng vuông hoặc tôn 11 sóng tùy loại) nhô ra khỏi mép mái khoảng 20-30cm để tạo ô văng che tường. Liên kết tấm tôn vào latê bằng đinh vít tự khoan có vòng đệm cao su chống dột: bắn vít tại các sống dương (đỉnh sóng) của tôn, khoảng cách mỗi vít ~50cm dọc theo xà gồ. Lắp tấm tôn kế tiếp chồng lên sóng trùng nhau ít nhất 1 sóng (chồng mép bên) và 15-20cm ở chiều dọc (nếu phải nối chiều dài), bắn vít cố định tương tự. Cứ như vậy lợp phủ toàn bộ mái. Sau cùng, lắp đặt tôn nóc (đinh chụp đầu hồi) chạy dọc đỉnh mái để che khe hở giữa hai mái dốc, cố định bằng vít và bơm keo silicone chống dột chỗ nối. Các vị trí tiếp giáp tường (nếu có) thì ốp tôn úp góc để ngăn nước hắt. Kiểm tra toàn bộ mái, bổ sung vít tại các điểm chưa đủ chặt, đặc biệt mép tôn dễ tốc gió.
Độ dốc mái tôn tối thiểu ~15% để nước mưa thoát nhanh, không đọng gây rỉ sét. Khi lợp phải chồng mí tấm tôn đúng chiều (tấm sau chồng lên tấm trước cùng chiều gió thổi chính) để tránh nước mưa lùa vào mối nối. Các vít bắn phải có vòng đệm cao su và được xiết vừa đủ, không quá chặt làm biến dạng tôn. Nếu mái rộng, nên làm thêm ống thoát nước mưa và máng xối (máng tôn hứng nước ở mép dưới mái) dẫn nước xuống các ống đứng, tránh xối trực tiếp xuống nền. Trong quá trình hàn xì khung mái, cần đảm bảo an toàn cháy nổ (không hàn gần vật liệu dễ cháy) và công nhân đeo dây an toàn khi làm việc trên cao. Với khí hậu Hà Nội nóng, có thể chọn tôn chống nóng (tôn 3 lớp có xốp PU) hoặc lắp trần cách nhiệt phía dưới mái để giảm nhiệt.
Trước khi trát, các bề mặt tường gạch cần được tưới nước ẩm và đục bỏ vữa thừa, tạo nhám ở chỗ gạch quá trơn. Đóng lưới thép chống nứt tại các vị trí tiếp giáp khác vật liệu (như giữa tường gạch và cột bê tông) để ngăn nứt chân chim sau này. Chuẩn bị vữa trát xi măng cát mác 75 (tỉ lệ 1:4). Bắt mốc và dùng thước cán tạo mặt phẳng rồi trát vữa lên tường dày khoảng 1,5-2cm. Tường thường trát 2 lớp: lớp trát sơ bộ và lớp hoàn thiện phẳng. Với trần nhà (dưới mái tôn) nếu làm trần thạch cao hoặc trần nhựa thì không cần trát trần. Sau khi trát, giữ ẩm tường 3-7 ngày để vữa đạt cường độ, tránh khô nhanh gây bong rộp.
Tiến hành láng một lớp vữa xi măng cát tạo cốt nền phẳng có độ dốc về cửa hoặc ga thoát (khu vệ sinh). Sau đó lát gạch nền (gạch ceramic hoặc granite 600x600mm chẳng hạn) bằng vữa xi măng hoặc keo dán gạch. Căng dây đảm bảo các hàng gạch thẳng và phẳng đều. Dùng búa cao su gõ đều trên mặt viên gạch cho dính chặt. Chú ý chừa khe gãnh (khe joint) ~2-3mm giữa các viên, sau khi gạch cố định thì chà bột chít mạch cùng màu vào khe cho thẩm mỹ. Tương tự với ốp gạch tường vệ sinh, bếp: dùng keo ốp lát chuyên dụng để dán gạch thẻ hoặc gạch men, canh đều khe gạch và chít mạch chống thấm.
Khi tường trát xong tiến hành lắp cửa đi, cửa sổ (cửa nhôm kính hoặc gỗ tùy thiết kế). Bắt khung cửa chắc vào ô tường bằng chân sắt hoặc vít nở, bơm foam và trát vữa xung quanh kín khít. Lắp các thiết bị điện (ổ cắm, công tắc, bóng đèn) vào các vị trí đã đi dây chờ sẵn. Lắp thiết bị nước như bồn cầu, chậu rửa, sen vòi vào đường ống chờ. Lắp bồn nước, máy bơm (nếu có) và đấu nối vào hệ thống cấp thoát
Trước khi sơn, trần và tường trong nhà nên bả một lớp bột bả matit mỏng để làm phẳng bề mặt, sau đó xả nhám nhẵn mịn. Quét sơn lót kháng kiềm toàn bộ tường/trần một lượt rồi sơn phủ màu (thường sơn 2 lớp, mỗi lớp cách nhau vài giờ). Dùng loại sơn nội thất cho trong nhà và sơn chống thấm ngoài trời cho mặt ngoài. Thi công sơn bằng rulo lăn đều, tránh chỗ quá dày quá mỏng. Kiểm tra dưới ánh sáng nếu còn lộ nền thì sơn thêm lớp nữa.
Lắp đặt thiết bị chiếu sáng, quạt trần nếu có. Lắp hoàn thiện bếp (tủ bếp, bàn đá) và các phụ kiện như vòi nước, quạt hút mùi. Lắp đặt bồn cầu, lavabo và kiểm tra vận hành hệ thống cấp thoát nước, đảm bảo không rò rỉ. Cuối cùng, vệ sinh công trình, thu dọn rác, tháo các bảo vệ và bàn giao nhà.
Quá trình hoàn thiện nên làm từ trên xuống: thi công trần, sơn trần trước, rồi đến tường, cuối cùng lát nền để tránh làm bẩn, xước nền. Trong khi sơn phải che phủ đồ gỗ, cửa sổ, thiết bị để không bị dính sơn. Các mối nối điện, nước cần thử áp, thử tải kỹ (ví dụ bơm nước đầy đường ống xem có rò không, bật tất cả thiết bị điện kiểm tra). Nhà cấp 4 thường đơn giản nhưng cần chú ý chống thấm: trát vữa kỹ các góc tường, cổ ống xuyên sàn vệ sinh phải được chống thấm bằng màng/fluid đúng quy trình trước khi lát gạch. Kiểm tra độ dốc nền khu vệ sinh, ban công để thoát nước tốt, tránh đọng nước lâu ngày gây thấm. Cuối cùng, hoàn thiện sơn cửa, lắp kính, bố trí nội thất cơ bản là ngôi nhà sẵn sàng đưa vào sử dụng.