Trước hết, cần làm sạch và san lấp mặt bằng xây dựng. Nếu có nhà cũ, tiến hành phá dỡ và tiêu hủy phần thừa, sau đó đổ đất lấp, lu nền cho bằng phẳng. Cố định ranh giới, giằng chống tạm và lán trại phục vụ thi công. Việc chuẩn bị mặt bằng thường mất khoảng 2 ngày. Ở Hà Nội, cần lưu ý thoát nước chống ngập khi mưa lớn để không làm trì hoãn công tác nền móng.
Hoàn tất thủ tục pháp lý: Xin phép xây dựng, thông báo tới phường xã, chuẩn bị hồ sơ thiết kế. Khảo sát hiện trạng: Địa hình, địa chất, định vị công trình.
Giải phóng mặt bằng: phá dỡ công trình, di dời, vận chuyển phế thải. San lấp mặt bằng: Đào đất, lấp đất, lu lèn, đầm nền,
Làm hàng rào, bắc giáo bao che công trình. Lắp điện, nước thi công, lán trại, kho bãi, làm đường thi công. Tập kết vật tư máy móc đến công trình
Mặt bằng: Dọn dẹp sạch sẽ, san phẳng khu vực thi công, xác định vị trí kho bãi tập kết vật tư. Bản vẽ: Chuẩn bị đầy đủ bản vẽ thiết kế kết cấu móng đã được phê duyệt. Đây là "kim chỉ nam" cho toàn bộ quá trình. Vật tư: Tập kết đủ vật tư thiết yếu: thép (đúng chủng loại, đường kính), xi măng, cát, đá, dây kẽm buộc, ván khuôn (coppha). Nhân lực và máy móc: Chuẩn bị nhân công và các máy móc cần thiết như máy đào (nếu cần), máy trộn bê tông, máy đầm...
Định vị: Dựa trên bản vẽ, kỹ thuật sẽ tiến hành định vị các tim trục của công trình ra thực địa. Họ sẽ dùng máy toàn đạc (hoặc các phương pháp thủ công chính xác), cọc và dây để giăng các trục tường, trục cột. Đào đất: Tiến hành đào đất dọc theo các trục móng đã được định vị. Kích thước hố đào (chiều rộng, chiều sâu) phải tuân thủ nghiêm ngặt theo bản vẽ thiết kế. Với nhà 2 tầng, chiều sâu hố móng thường từ 80cm đến 1.2m tính từ cốt nền tự nhiên. Trong quá trình đào, thành vách hố móng phải thẳng, không sạt lở. Đáy hố móng phải được làm phẳng.
Làm phẳng và đầm nền: Sau khi đào xong, đáy hố móng sẽ được dọn sạch và đầm kỹ bằng đầm tay hoặc đầm máy để nền đất được nén chặt, ổn định. Đổ bê tông lót (Blinding Concrete): Mục đích: Lớp bê tông lót tạo ra một bề mặt bằng phẳng, sạch sẽ để thi công lớp thép móng, đồng thời ngăn mất nước xi măng của lớp bê tông móng chính và tránh bê tông móng tiếp xúc trực tiếp với đất. Thông số: Bê tông lót thường dày 10cm, sử dụng bê tông đá 4x6, mác thấp (Mác 100-150).
Đây là bước quan trọng nhất quyết định khả năng chịu lực của móng. Gia công: Thép được cắt, uốn theo đúng hình dạng, kích thước và số lượng trong bản vẽ kết cấu. Thép phải được làm sạch, không dính bùn đất hay dầu mỡ. Lắp dựng: Lắp dựng thép dầm móng (thép dọc) và thép đai theo đúng khoảng cách quy định. Lắp dựng thép bản móng (thép phương ngang). Các thanh thép được liên kết với nhau bằng dây kẽm buộc chắc chắn. Quan trọng: Đặt các cục kê bê tông (con kê) dày 2.5 - 3cm ở dưới lớp thép bản móng và ở các mặt bên của thép dầm móng. Việc này đảm bảo lớp bê tông bảo vệ cốt thép, chống thép bị ăn mòn sau này.
Ván khuôn là khuôn tạm thời để chứa bê tông và định hình móng. Có thể dùng ván khuôn gỗ, thép, hoặc gạch (phổ biến với nhà dân dụng để tiết kiệm). Yêu cầu: Ván khuôn phải thẳng, chắc chắn, kín khít để không bị biến dạng hay mất nước xi măng khi đổ bê tông. Kích thước hình học bên trong ván khuôn phải đúng với thiết kế.
Kiểm tra lần cuối: Nghiệm thu công tác lắp dựng cốt thép và ván khuôn trước khi đổ bê tông. Chọn bê tông: Nên ưu tiên sử dụng bê tông tươi (bê tông thương phẩm) từ trạm trộn để đảm bảo chất lượng đồng đều và đúng mác thiết kế (thường là Mác 200 hoặc 250 cho nhà 2 tầng). Quá trình đổ: Đổ bê tông liên tục, tránh đổ thành nhiều lớp cách nhau quá lâu gây ra hiện tượng "mạch ngừng" làm giảm khả năng chịu lực. Đổ từ từ, chiều cao rơi tự do không quá 1.5m để tránh phân tầng bê tông. Bắt buộc: Sử dụng đầm dùi để đầm bê tông. Đầm kỹ từng lớp, đặc biệt là các góc cạnh để bê tông được lèn chặt, không bị rỗ, bọt khí.
Đây là công đoạn thường bị bỏ qua nhưng lại cực kỳ quan trọng.
Mục đích: Bê tông đông cứng và đạt cường độ là nhờ quá trình thủy hóa của xi măng, quá trình này cần độ ẩm. Nếu bê tông khô quá nhanh, nó sẽ bị nứt và không đạt được cường độ thiết kế.
Cách thực hiện:
Sau khi bề mặt bê tông se lại (khoảng 4-5 giờ), tiến hành che phủ bằng nilon, bạt hoặc bao tải ẩm.
Tưới nước giữ ẩm liên tục trong 7 ngày đầu tiên.
Tháo ván khuôn: Ván khuôn có thể được tháo sau 24 – 48 giờ kể từ lúc đổ bê tông, khi bê tông đã đủ cường độ cơ bản để không bị sứt mẻ.
Lấp đất: Sau khi tháo ván khuôn, tiến hành lấp đất vào các khe, hố móng còn lại. Lấp từng lớp đất dày khoảng 20-30cm rồi đầm kỹ để tránh sụt lún nền nhà sau này.
Tuân thủ tuyệt đối bản vẽ thiết kế: Không tự ý thay đổi đường kính thép, khoảng cách thép hay kích thước móng.
Giám sát chặt chẽ: Chủ nhà hoặc người có chuyên môn cần giám sát kỹ các công đoạn, đặc biệt là công tác cốt thép và đổ bê tông.
Không thi công trong trời mưa to: Mưa sẽ làm thay đổi tỉ lệ nước/xi măng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến mác bê tông.
Cổ cột chờ: Đừng quên lắp đặt thép chờ cho cột đúng vị trí và chiều dài neo theo thiết kế ngay trong quá trình thi công thép móng.
Sau móng, tiến hành làm phần khung gồm cột, dầm và sàn các tầng. Đầu tiên là đổ bê tông cột tầng trệt – quy trình gia công cốt thép, dựng cốp pha, và đổ bê tông cột. Tiếp theo thi công dầm sàn và đổ bê tông sàn tầng trệt. Sau khi bê tông sàn trệt đủ cứng, lặp lại tương tự để làm cột và sàn tầng 1 (lầu 1). Các bước này bao gồm lắp đặt giàn giáo, gia công lồng thép cột-dầm, đổ bê tông, rồi tháo cốp pha và gia cố tạm. Giai đoạn thi công khung cột – sàn tầng 1 thường mất khoảng 15–20 ngày. Quan trọng là đảm bảo khớp nối cốt thép giữa các tầng, kiểm soát độ thẳng cột và mặt phẳng sàn; đồng thời tuân thủ đúng khoảng lún, mối nối theo thiết kế.
Nối thép: Nối thép cột tầng 1 vào phần thép chờ đã để sẵn từ móng.
Yêu cầu: Chiều dài nối thép phải tuân thủ thiết kế, thông thường là 30-40 lần đường kính thép. Ví dụ, với thép Ø16, đoạn nối tối thiểu là 16mm * 30 = 480mm (làm tròn 50cm).
Các mối nối phải được buộc bằng dây kẽm tối thiểu 3 vị trí (đầu, giữa, cuối).
Lắp dựng thép chủ: Dựng các cây thép chủ (thép dọc) theo đúng số lượng và đường kính trong bản vẽ.
Lắp đặt thép đai:
Buộc thép đai vào thép chủ theo đúng khoảng cách.
Lưu ý quan trọng: Theo tiêu chuẩn, thép đai ở các vị trí đầu cột và chân cột sẽ được buộc dày hơn (ví dụ a=100mm) để tăng khả năng chống cắt. Phần giữa thân cột có thể buộc thưa hơn (ví dụ a=200mm).
Kiểm tra và cố định: Sau khi lắp dựng xong, lồng thép phải thẳng đứng, chắc chắn. Dùng cục kê bê tông dày 2.5-3cm để tạo lớp bảo vệ cho cốt thép.
Lắp dựng các tấm ván khuôn (gỗ, thép…) xung quanh lồng thép cột.
Yêu cầu:
Ván khuôn phải kín, khít để không làm chảy “nước xi măng” khi đổ bê tông.
Dùng quả dọi hoặc máy laser để kiểm tra độ thẳng đứng tuyệt đối của ván khuôn.
Sử dụng gông, cây chống để gia cố ván khuôn, đảm bảo không bị phình, cong vênh khi chịu áp lực từ bê tông tươi.
Dưới chân cột thường để một “cửa sổ” nhỏ để vệ sinh sạch sẽ rác thải bên trong trước khi đổ.
Vệ sinh: Vệ sinh sạch sẽ bên trong ván khuôn. Tưới một lớp nước để làm ẩm ván khuôn.
Đổ bê tông: Sử dụng bê tông thương phẩm hoặc bê tông tự trộn đúng mác thiết kế (thường là Mác 250 cho nhà phố). Đổ bê tông từ từ, tránh đổ từ độ cao quá lớn.
Đầm bê tông: Bắt buộc phải dùng đầm dùi. Đưa đầm vào theo phương thẳng đứng, đầm kỹ từng lớp (mỗi lớp 30-50cm) để bê tông lèn chặt, thoát hết bọt khí và không bị rỗ.
Đây là hệ thống "giàn giáo" nâng đỡ toàn bộ bê tông dầm sàn khi còn ướt. Lắp cây chống: Dựng hệ thống cây chống (cột chống, giàn giáo) chịu lực cho toàn bộ sàn. Chân cây chống phải được đặt trên nền cứng, có tấm gỗ lót để chống lún. Lắp đặt xà gồ: Đặt hệ thống xà gồ (thanh đỡ chính và phụ) lên đầu cây chống để tạo thành khung xương đỡ ván khuôn. Lắp ván khuôn: Trải các tấm ván khuôn sàn và lắp ván khuôn thành dầm lên hệ xà gồ. Kiểm tra cao độ: Dùng máy thủy bình hoặc máy laser để kiểm tra cao độ của mặt sàn, đảm bảo sàn phẳng tuyệt đối, không bị võng, dốc.
Thép dầm: Đặt thép chủ lớp dưới của dầm lên các cục kê. Lắp đặt thép đai của dầm. Đặt thép chủ lớp trên (thép gối) và thép tăng cường. Thép sàn: Lớp dưới: Rải thép lớp dưới theo hai phương vuông góc, buộc chắc chắn vào nhau và vào thép dầm. Lớp trên: Đặt các "chân chó" (con kê hình chữ A) lên lớp thép dưới để tạo khoảng cách. Sau đó, rải thép lớp trên theo hai phương. Thép sàn cũng phải được kê bằng cục kê bê tông để đảm bảo chiều dày lớp bê tông bảo vệ.
Trước khi đổ bê tông, cần lắp đặt chính xác vị trí các đường ống chờ đi xuyên qua dầm, sàn: Ống luồn dây điện. Hộp nối điện âm sàn. Ống thoát nước cho nhà vệ sinh, ban công, sàn mái. Ống cấp nước. Ống đồng cho máy lạnh (nếu đi âm). Việc này giúp tránh phải đục phá kết cấu sau này, vốn rất nguy hiểm và tốn kém.
Nghiệm thu: Chủ nhà/giám sát cùng đơn vị thi công kiểm tra lại toàn bộ hệ thống ván khuôn, cốt thép, hệ thống chờ. Vệ sinh sạch sẽ bề mặt ván khuôn. Đổ bê tông: Nên dùng bê tông thương phẩm để đảm bảo chất lượng. Đổ bê tông từ xa đến gần, đổ vào dầm trước rồi đến sàn. Đổ thành một lượt liên tục để tạo thành một khối bê tông đồng nhất (monolithic). Dùng đầm dùi cho phần dầm và dùng cào, thước gạt chuyên dụng để làm phẳng bề mặt sàn.
Bảo dưỡng bê tông sàn còn quan trọng hơn bê tông cột vì bề mặt tiếp xúc lớn, dễ mất nước. Sau khi bề mặt se lại, tiến hành che phủ bằng nilon hoặc bạt. Phương pháp tốt nhất là xây một bờ be nhỏ xung quanh và ngâm nước xi măng trên bề mặt sàn trong ít nhất 7-10 ngày. Việc này giúp sàn không bị nứt và đạt cường độ tối đa.
An toàn lao động: Giai đoạn này làm việc trên cao nên phải tuyệt đối tuân thủ an toàn: giàn giáo chắc chắn, có lan can, lưới bao che.
Thời gian tháo dỡ cây chống: Đây là điều tối quan trọng. KHÔNG được tháo dỡ cây chống sớm. Thời gian an toàn để tháo toàn bộ cây chống sàn thường là 21-28 ngày sau khi đổ, tùy thuộc vào nhịp dầm và điều kiện thời tiết.
Giám sát: Cần có người giám sát kỹ thuật có chuyên môn trong suốt quá trình, đặc biệt là ở khâu kiểm tra cốt thép và lúc đổ bê tông.
BƯỚC 4
Trước tiên phải dọn dẹp sạch sẽ khu vực nền móng, san phẳng mặt bằng và kiểm tra khô ráo, không bị đọng nước. Đảm bảo móng bê tông hoặc sân nhà đã đạt cao độ thiết kế và đủ cứng chịu lực. Chuẩn bị đầy đủ vật liệu: gạch đỏ đặc đúng tiêu chuẩn (kiểm tra không nứt, ẩm), cát xây, xi măng (có thể bổ sung vôi bột để tăng độ dẻo vữa), và nước sạch. Tập kết gạch đủ cho chiều cao dự kiến (thường tính cho 1–1,5 tầng để tránh thiếu hụt). Các dụng cụ cần có gồm bay xây, thước thủy, dây đánh lưới/dây dọi, dao xây, xẻng, găng tay…. Trước khi xây, cần tưới ẩm gạch khoảng 6–12 giờ để gạch hút nước ban đầu, tránh để gạch quá khô sẽ hút ẩm từ vữa khi xây.
Xác định lưới trục chính: dùng dây mực (hoặc máy laser) để đánh dấu vị trí tim tường trên nền và tường bên cạnh. Đặt cọc hoặc cố định dây căng sao cho đường xây thẳng tắp. Trước khi lát viên gạch đầu tiên, làm sạch bề mặt nền và trải một lớp vữa xi măng mỏng dày khoảng 15–20mm, có thể khía rãnh sâu 5–10mm để tăng độ bám dính. Khuấy vữa xây: đo chính xác tỷ lệ cát – xi măng (ví dụ vữa mác 50 thường 1:3 xi măng:cát hoặc theo yêu cầu thiết kế). Trộn khô cát và xi măng đều, sau đó từ từ thêm nước trộn cho đến khi hỗn hợp vữa sền sệt, mịn, đảm bảo độ dẻo thích hợp. Vữa trộn xong phải dùng ngay, tránh để lâu khô hoặc phân tầng.
Bắt đầu xây hàng gạch đầu tiên tại góc tường: trải vữa đều lên nền, đặt viên gạch đầu tiên thật bằng phẳng và thẳng đứng, dùng dọi và thước thủy kiểm tra kỹ. Các viên gạch tiếp theo được xây lần lượt từ 2 đầu tường ra giữa, luôn đảm bảo xây khít nhau, không để khe hở. Tường 10cm thường xây “chữ công” (xếp so le): viên gạch trên phải chồng vào đầu viên gạch dưới, tạo thành mạch vữa lệch nhau (ít nhất 1/4–1/2 chiều dài viên gạch) để tăng liên kết giữa các hàng. Độ dày mạch vữa tiêu chuẩn khoảng 8–12mm (mạch ngang thường dày hơn mạch đứng); theo TCVN 4085:1985, mạch đứng trung bình 10mm, không nhỏ hơn 8mm, không lớn hơn 15mm. Sau khi xây mỗi vài lớp, cần kiểm tra ngay độ thẳng đứng, độ phẳng của tường bằng dây dọi và thước thủy, điều chỉnh ngay khi thấy lệch. Xây đến cao độ đặt lanh tô hoặc dầm, phải dừng và lắp lanh tô trước khi xây tiếp.
Ở vị trí tường giao (ngã ba hay ngã tư tường), cần ghép xen kẽ gạch của hai tường với nhau và miết thật kỹ vữa vào khe nối. Tại các cột bê tông: sau khi đổ cột xong, khoan chờ lỗ sâu ~7cm vào cột ở khoảng cách ~50cm (tương đương 5 viên gạch), rồi cắm thép D8 dài ~30cm làm “râu” nối với mạch tường; lớp vữa đổ vào lỗ khoan cần được trộn phụ gia hóa dẻo để tăng bám dính. Đối với cửa, lanh tô: xây đà lanh tô (dầm trên cửa) bằng bê tông cốt thép hoặc gạch chữ U gia cố cốt thép. Ví dụ, có thể ghép gạch chữ U nối giữa 2 cột (mặt trống úp lên trên) làm cốp pha, cho thép dọc và đổ bê tông lấp đầy tạo đà giằng/lanh tô vững chắc. Lanh tô phải đủ dài (thường vượt qua hai đầu lỗ cửa khoảng 20–60cm) và có cốt thép phù hợp mới chịu được tải trọng trên cửa.
Trong quá trình xây phải luôn dùng dây căng (dây lèo và dây làn), thước thủy và quả dọi để theo dõi độ thẳng đứng và độ phẳng của tường. Ban đầu kéo căng dây tại hai góc cuối tường, sau đó căng dây dọc sát mỗi mặt gạch. Mỗi khi xây thêm 1–2 lớp gạch, kiểm tra lại đường dây (không căng dây quá nhiều lớp một lần, để tránh mạch gạch bị lệch vẹo). Dùng thước thủy đo xem bề mặt gạch ngang có bằng phẳng, không võng và dùng dọi kiểm tra khối tường có đứng vuông góc với nền. Nếu phát hiện hàng gạch nào cao/thấp quá, cần gạt bớt vữa hoặc bổ sung thêm vữa để chỉnh ngay trước khi đóng viên kế tiếp.
• Không căng dây định vị liên tục: nếu chỉ căng dây theo từng đoạn ngắn (giữa hai cột) thay vì một mạch từ đầu đến cuối, các đoạn tường khi ráp vào nhau sẽ lệch mạch, tường không thẳng và khó trát phẳng sau này. Khắc phục: Luôn căng dây mực/dây làn liên tục suốt cả dài tường và kiểm tra điều chỉnh đều đặn sau mỗi vài lớp gạch. • Quên dùng gạch đầu (gạch đinh) ở chân tường: xây xung quanh cột hoặc chân tường bằng gạch ống bình thường sẽ để lộ nhiều lỗ rỗng, dễ thấm nước và nứt gãy tại mối tiếp nối giữa cũ và mới. Khắc phục: Tại mép giao hoặc chân tường gần cột nên sử dụng gạch đinh (cắt sao cho chiều dài đủ) để đặt viên đầu, đảm bảo vữa kín đáo và tăng cường độ đặc cho khối xây. • Trộn vữa thiếu chính xác: pha trộn vữa theo cảm tính, không cân đo tỷ lệ cát – xi măng sẽ gây vữa quá lỏng hoặc khô, mất liên kết. Khắc phục: Cân hoặc đo cát, xi măng theo mác vữa yêu cầu (ví dụ M50, M75), trộn thật đều, luôn dùng vữa tươi đã trộn, không để lâu khô khan. • Quên neo thép tại cột: không đục mạch cột để kéo “râu thép” từ cột ra bắt vào tường sẽ làm mất liên kết cột – tường, dễ tách rời khi có tải ngang. Khắc phục: Trước khi xây, gõ bỏ phần vữa ở vị trí dấu cột, kéo sắt chờ từ cột ra ngoài và bấm vào lớp gạch ngay khi xây đến đó để neo chặt. • Không tưới ẩm/bôi hồ dầu tại chỗ tiếp giáp: nếu không tưới nước hoặc trát hồ dầu nơi tiếp giáp giữa tường và cột/đà, gạch sẽ khó bám dính và dễ nứt, chảy máng. Khắc phục: Trước khi xây đến cột, dùng cọ nhúng nước sạch hoặc quét hồ dầu (hỗn hợp xi măng – cát lỏng) lên bề mặt cột bê tông, tạo độ nhám và giữ ẩm giúp kết cấu liên kết tốt hơn.
Trước hết phải kiểm tra và gia cố hệ cốp pha sàn mái bê tông chắc chắn, đảm bảo kín khít (không rò rỉ nước) và đúng cao độ thiết kế. Kiểm tra độ võng và cao độ đáy sàn tại nhiều điểm để đảm bảo độ phẳng. Cốt thép phải được bố trí đúng vị trí, đúng chủng loại, số lượng và liên kết theo hồ sơ thiết kế; các thanh thép phải được làm sạch, gỉ sét được cạo bỏ để tăng độ bám dính của bê tông. Chuẩn bị nhân lực, máy móc, bề mặt thi công sạch sẽ; tính toán thời gian đổ bê tông liên tục, an toàn lao động trên mái và giữ vệ sinh công trường trước khi đổ.
Cấp phối bê tông phù hợp (thường dùng bê tông cường độ mác 200–250 cho sàn mái nhà dân dụng). Khi nhiệt độ cao (trên 30°C), đổ bê tông phải liên tục, tránh gián đoạn lớn để đảm bảo tính liên kết của bê tông. Thường chia mặt sàn mái thành các dải rộng 1–2m và đổ lần lượt dải này rồi mới chuyển sang dải tiếp theo. Đầu tiên, đổ bê tông vào các dầm chính cách mặt cốp pha 5–10cm, sau đó đổ bê tông sàn mái sao cho bê tông hòa kết tốt với dầm. Quá trình đổ luôn phải kết hợp dụng máy đầm dùi để đảm bảo bê tông dính kết chặt và không tạo lỗ rỗng.
Ngay sau khi đổ và gạt mặt xong, chờ cho nước nổi trong bê tông rút bớt một phần, tiến hành đầm lại bê tông lần hai. Việc đầm lại khi bê tông se mặt giúp tăng độ chặt, giảm độ rỗng, tăng khoảng 10–15% cường độ 28 ngày. Nếu thấy nước đọng trên mặt, có thể rắc một lớp xi măng mỏng và xoa kỹ bằng bàn xoa gỗ để mặt bê tông phẳng mịn, vừa cải thiện chống thấm vừa gia cường bề mặt. Sau khi đầm kỹ và hoàn thiện bề mặt, bảo dưỡng và chống nắng, giữ ẩm cho bê tông theo khuyến cáo (thường ít nhất 7 ngày) để bê tông đạt cường độ và giảm nứt do co ngót.
Mái bê tông chịu tác động trực tiếp của thời tiết nên cần chống thấm thật kỹ sau khi đổ xong. Có hai cách chính: dùng vật liệu truyền thống (pha xi măng – cát – đá dăm tạo lớp chống thấm thô) hoặc vật liệu hiện đại (màng chống thấm bitum, sơn/nhiệt dẻo, hóa chất polymer…). Quy trình chung gồm: làm sạch bề mặt (dọn sạch bụi bẩn, vỏ vữa yếu; vá trám vết lõm, nứt bằng vữa xi măng mác ≥ 50); nếu dùng màng bitum, quét lớp lót gốc bitum tăng bám dính rồi trải màng tự dính hoặc dùng đèn khò khò màng bitum lên bề mặt, miết chặt và bảo vệ bề mặt bằng trát vữa xi măng cát mỏng. Đối với vật liệu lỏng (ví dụ Sika Topseal 107), thường trộn hai thành phần tạo hỗn hợp vữa đàn hồi rồi quét 2–3 lớp liên tiếp lên sàn đã tưới ẩm đủ. Sau khi hoàn tất, ngâm thử nước 24 giờ để kiểm tra hiệu quả.
Mái bằng cần thiết kế độ dốc thoát nước hợp lý (thông thường từ 2–3% đối với sân thượng) để nước mưa không ứ đọng. Cấu tạo hệ thoát nước bao gồm máng gắn dưới viền mái (sênô BTCT có độ dốc 1–2% về phía phễu thu nước), sau đó nước chảy vào phễu có lưới chắn rác rồi xuống ống đứng dẫn ra cống. Quy chuẩn ước lượng mỗi ống đứng Ø100mm phục vụ khoảng 70–120m² mái tùy lượng mưa từng địa phương. Lưu ý bố trí đủ ống thoát (thường tối thiểu 1 ống Ø100mm cho ~100m²) và sắp xếp thông minh để đảm bảo mỹ quan.
Theo TCVN 5592:1991 (được dẫn chiếu trong TCVN 4453:1995), bê tông phải được dưỡng ẩm đầy đủ trong giai đoạn đầu đông kết. Thời gian tối thiểu phụ thuộc vào vùng khí hậu; ở Hà Nội (miền Bắc) cần dưỡng ẩm ít nhất 5–7 ngày (trong điều kiện nắng nóng cần che chắn và tưới nước định kỳ). Trong thời gian bảo dưỡng, bê tông mái phải được che chắn khỏi tác động cơ học và tránh mất ẩm nhanh (không để hở trực tiếp nắng gió). Thực hiện cắt khe co giãn (theo TCVN): với mái không có lớp cách nhiệt, đặt khe co giãn mỗi 6–9m; nếu có lớp cách nhiệt thì khoảng cách này có thể kéo dài tới 18m.
Việc đổ liên tục giúp tránh mạch ngừng lạnh và đảm bảo bêtông đồng nhất. Nếu bắt buộc gián đoạn, phải tạo mạch lạnh đúng kỹ thuật (xử lý mặt cũ, đầm lèn tốt khi đổ phần tiếp theo).
Thiếu bảo dưỡng ẩm (đặc biệt trong nắng nóng) sẽ gây nứt co ngót, giảm cường độ bê tông. Theo quy định TCVN, bê tông phải được che chắn và tưới nước ít nhất hàng ngày trong tuần đầu.
Độ dốc quá thấp hoặc ống thoát quá nhỏ/ít sẽ làm nước đọng trên mái, gây thấm ngược và hư hại về lâu dài.
Phủ lớp chống thấm thiếu keo/vữa bảo vệ sẽ dễ bị hỏng (màng sàn có thể rách, bong keo). Thiếu lớp lót hoặc miết màng không chặt cũng làm giảm hiệu quả chống thấm.
Mái lớn không có khe co giãn sẽ dễ nứt ngẫu nhiên. Cần đặt khe co giãn đúng khoảng (6–9m, có thể lớn hơn nếu có lớp cách nhiệt).
Khi kết cấu chính hoàn thành đến tầng mái, các hạng mục kỹ thuật được triển khai song song. Đầu tiên bố trí ống gen điện và ống cấp thoát nước chờ trong tường, sàn. Thực hiện lắp đặt ống cấp nước chính từ bể nước hoặc nguồn cấp, đường ống thoát nước thải sinh hoạt. Lắp đặt tủ điện, dây điện chạy ngầm cho hệ thống chiếu sáng, ổ cắm, công tắc. Các thiết bị phụ trợ như máy bơm nước, bình nóng lạnh, hệ thống lạnh (nếu có), mạng cáp, camera… sẽ được lắp sau khi hoàn thiện cơ bản. Tất cả ống dây kỹ thuật phải được che phủ kín trước khi tô tường. Việc này thường bắt đầu khi kết cấu thô hoàn tất và hoàn thiện cùng với giai đoạn hoàn thiện bên trong.
Giai đoạn hoàn thiện bao gồm trát tường (nội và ngoại thất), ốp lát sàn (gạch, đá, gỗ), trần (thạch cao hoặc la phông), sơn nước, lắp đặt cửa đi – cửa sổ và đồ nội thất. Xử lý mạch ngừng, mài nhẵn bề mặt tường. Ốp lát phòng tắm, vệ sinh, lắp thiết bị vệ sinh, bếp và tủ gỗ. Sơn lót và sơn phủ bên ngoài (phòng khách, mặt tiền) cần thực hiện vào mùa khô để đảm bảo kết quả tốt. Thiết kế chiếu sáng, đèn trang trí, gắn quạt, máy lạnh được hoàn thành cuối cùng. Ngoài ra, cảnh quan sân vườn, hàng rào, lối đi (nếu có) sẽ được thi công song song hoặc sau cùng. Thời gian hoàn thiện trọn gói thường từ 30–40 ngày tùy quy mô, nhưng với nhà 75m² phổ biến khoảng ~35 ngày.
Dựa trên quy mô nhà 2 tầng ~75m², thời gian thi công từng giai đoạn ước tính như sau (không tính ngày nghỉ lễ). Tổng thời gian xây dựng hoàn thiện khoảng 4–5 tháng (khoảng 90–105 ngày thi công), tùy thuộc vào điều kiện thời tiết, nhân lực và thiết kế cụ thể
Chuẩn bị mặt bằng, san gạt, định vị mốc, bắc giáo bao che (không bao gồm thời gian chờ xin giấy phép xây dựng, thời gian phá dỡ công trình cũ)
Thời gian tính ép cọc bê tông công thép đúc sẵn, cần phải có kế hoạch trước.
Bao gồm thời gian bảo dưỡng và lấp đất hố móng.
Thường xây tường bao ở giai đoạn này, tường ngăn phòng xây sau, trung bình khoảng 3 ngày, có thể xây tường sau khi đã đổ xong bê tông khung.
Gia công cốt thép và đổ bê tông cột, dầm, sàn tầng 2, bao gồm thời gian bảo dưỡng.
Có thể xây tường ngăn trước khi đổ mái hoặc xây tường sau khi đổ bê tông xong tháo ván khuôn.
Bao gồm thời gian bảo dưỡng bê tông, chống thấm mái
Bao gồm: Trát, lát, sơn bả, trần, sàn, lắp đặt thiết bị, sản xuất và lắp đặt nội thất
Hà Nội có khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm (mùa hè nóng mưa nhiều, mùa đông lạnh khô). Mùa mưa (tháng 5–10) chiếm ~80% tổng lượng mưa năm, thường kèm theo ngập úng tại khu vực trũng thấp nội thành do nền đất yếu, mực nước ngầm cao (sông Hồng dâng cao 4–5m so với mặt bằng thành phố). Vì vậy, cần lưu ý thi công vào mùa khô cho các bước đổ bê tông, chống thấm và ưu tiên hệ thống thoát nước tốt; mái bê tông phải chống thấm chặt chẽ (hai lớp) để tránh dột vào mùa mưa. Mùa đông Hà Nội có nhiệt độ dưới 18°C (tháng 1), do đó bê tông đổ cần có biện pháp giữ ấm và dưỡng hộ (dù không phải chống đóng băng như miền Bắc hàn đới).
Địa chất Hà Nội nội thành đa phần là lớp phù sa yếu, dễ lún và ngấm nước. Ở những khu vực như phố cổ, Gia Lâm, Long Biên… lớp đất yếu dày, nên phải khảo sát địa chất và thường phải gia cố móng (ép cọc bê tông cốt thép) trước khi đào móng băng. Nếu không ép cọc, móng băng phải đổ dày hơn và rộng hơn thiết kế tiêu chuẩn, kèm gia cố chống lún sau thi công. Ngoài ra, độ ẩm cao và mưa nhiều ở Hà Nội cũng dễ gây nấm mốc, mối mọt; do đó nên chọn vật liệu xây dựng, gỗ nội thất có tính chống ẩm mốc tốt và đảm bảo thông gió tốt cho công trình.